TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0:172 : ”TOO BIG TO FALL” :KHÁI NIỆM ,NGUYÊN NHÂN & VÀI CASE STUDY ĐIỂN HÌNH.

1-Trong lịch sử phát triển của loài người: (i)Tại các nước kinh tế thị trường đã phát triển; (ii)Tại các nước kinh tế thị trường đang nổi (Emerging market); và nhất là (iii)Tại các nước “đang chuyển đổi thể chế kinh tế-chính trị”, đã để lại 1 hiện tượng với tên gọi “Too Big To Fall” (Tạm dịch” Tôi lớn đến mức không bao giờ sụp đổ”) như Leman Brothers; Sharp; Panasonic; Gần đây là Keangnam ; Posco E&C; Nước Hoa Thanh Hương; Epco-Minh Phụng ; etc….

2-Vậy đâu là nguyên nhân?

Trong bài này tôi chỉ xin dẫn là 1 nguyên nhân: Đó là sự ngộ nhận (!) của rất nhiều doanh nhân về khái niệm “Biến phí” trong công thức tính “Chi phí sản xuất/kinh doanh” (Xin tham khảo link: http://doc.edu.vn/tai-lieu/chuyen-de-phan-tich-chi-phi-kinh-doanh-nham-dua-ra-cac-bien-phap-tiet-kiem-chi-phi-kinh-doanh-tai-chi-nhanh-giao-dich-30393/ );

3-Công thức tính chi phí (“ Cost = C”):

3.1-Hầu như mọi người (!?) mặc nhiên thừa nhận tính TUYỆT ĐỐI ĐÚNG của công thức: C = F + V (Chi phí là tổng của định phí (“ Fixed Cost”) cộng với biến phí ( “Variable Cost”!), mà quên mất rằng công thức trên có 1 tử huyệt đó là bỏ qua” mất mối liên hệ VÔ CÙNG QUAN TRỌNG giữa “V” và “Q” (“Q” là quantity, tức số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong 1 khoảng thời gian nhất định như 1 ca,1 tháng, 1 quý, 1 năm, v.v…;Hay “số lượng hàng hóa/dịch vụ mua vào, bán ra” cũng trong 1 khoảng thời gian nhất định như 1 ca, 1 tháng, 1 quý, 1 năm,v.v…;Hay “Quy mô” của 1 dự án đầu tư/1 doanh nghiệp;….);

KL  N0.1: Công thức chuẩn của chi phí phải là: C =F + V.Q;

3.2-Vì “C” là chi phí, cho nên khi muốn giảm giá bán ( “Price = P”) thì một trong những giải pháp được ưu tiên lựa chọn là giảm C, mà như công thức ở trên, C lại là “sum= tổng” của 2 số hạng “F” + “V.Q”, trong đó số hạng thứ 2 “V.Q” LẠI LÀ tích số của 2 thừa số “V” & “Q”!

Câu hỏi: 1-Sự biến thiên (tăng, giảm) của C tùy thuộc vào những yếu tố nào ? Và 2-Yếu tố “V” có ĐỒNG BIẾN với yếu tố “Q” không ?

KL  N0.2 : Chính vì nhiều người hiểu sai 2 câu hỏi trên cho nên mới dẫn đến những thất bại trong đầu tư/kinh doanh khi họ cho rằng : Quy mô vốn đầu tư/quy mô doanh nghiệp càng lớn càng ít có rủi ro sụp đổ (to fall)(?!), nhất là những doanh nghiệp sân sau, có thế lực “chống lưng” là các ngân hàng, quan hệ cá nhân, huyết thống, etc…!

CASE STUDY N0:169: FDI VS XUẤT KHẨU : Doanh nghiệp FDI đang làm chủ “cuộc chơi”

Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực này trong tổng kim ngạch xuất khẩu có xu hướng tăng nhanh theo từng năm.

-Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) là 39 tỷ USD, chiếm là 54,1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

-Năm 2011 con số này lên tới 55,1 tỷ USD, chiếm 57% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

-Năm 2012 đạt 72 tỷ USD, chiếm 64% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

-Năm 2013 đạt 88 tỷ USD, chiếm 66,9% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.

-Đến năm 2014 xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài đạt mức cao nhất từ trước đến nay 101,59 tỷ USD, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2013, chiếm 68% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.

-Xuất khẩu của khu vực ĐTNN (kể cả dầu thô) trong 4 tháng năm 2015 đạt 35,07 tỷ USD, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm 2014 và chiếm 70% tổng kim ngạch xuất khẩu.


CASE STUDY N0:168: Lừa kiểu Ponzi bằng huy động siêu lãi

Dưới hình thức huy động vốn nhàn rỗi đầu tư vào những dự án nước ngoài, một số công ty đang rao trả mức “siêu lãi” lên tới 10%/tháng. Theo các chuyên gia tài chính, đây là trò lừa đảo có tên gọi Ponzi.

CASE STUDY N0:165: ‘Lời nguyền’ giữa nhà chọc trời và khủng hoảng

Liệu sự bùng nổ điên cuồng kể trên của những tòa chọc trời có tiên đoán một điều tồi tệ gì đó cho kinh tế thế giới hay không? Rất nhiều học giả đã tranh luận về vấn đề này nhưng một nghiên cứu mới đây đã giải mã phần nào thắc mắc đó.

Trong năm 1999, Andrew Lawrence đến từ ngân hàng đầu tư Dresdner Kleinwort Benson đã xác nhận những gì được biết đến như “những tòa nhà chọc trời đáng nguyền rủa”.

Ông Lawrence nhấn mạnh một sự tương quan đáng kinh ngạc giữa việc xây dựng các tòa nhà cao nhất thế giới và khủng khoảng kinh tế.

– Sự ra đời của Singer Builidung và Metropolitan Life Tower tại New York vào những năm 1908 và 1909 gần như trùng khớp với khủng hoảng tài chính vào năm 1907 và sự suy thoái kinh tế tiếp theo đó.

– The Empire State Building mở cửa năm 1931, tức là nó được xây cùng lúc Đại suy thoái diễn ra. (Đại suy thoái là thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu diễn ra từ năm 1929 đến hết năm 1930).

– Tiếp theo tòa tháp đôi Petronas Tower của Malaysia trở thành tòa nhà cao nhất thế giới vào năm 1996 ngay trước khi cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á diễn ra.

– Tòa tháp Burj Khalifa của Dubai hiện là tòa tháp cao nhất thế giới khai trương năm 2010, cùng lúc xảy ra khủng hoảng trong khu vực và toàn cầu.

CASE STUDY N0:164: Soát xét BCTC bán niên: Có như không?

1-Tuy nhiên, nhìn vào các BCTC soát xét thì thấy nổi lên một số vấn đề:

Thứ nhất, phần lớn ý kiến soát xét của CTKT đều chung chung và na ná nhau: “Chúng tôi đã thực hiện công tác soát xét BCTC theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam về công tác soát xét. Chuẩn mực này yêu cầu công tác soát xét phải lập kế hoạch và thực hiện để có sự đảm bảo vừa phải rằng, BCTC không chứa đựng những sai sót trọng yếu. Công tác soát xét bao gồm chủ yếu việc trao đổi với nhân sự của công ty và áp dụng các thủ tục phân tích trên những thông tin tài chính; công tác này cung cấp một mức độ đảm bảo thấp hơn công tác kiểm toán. Chúng tôi không thực hiện công việc kiểm toán nên không đưa ra ý kiến kiểm toán”.

Không ít NĐT đặt câu hỏi: phải chăng, đây không phải là báo cáo kiểm toán nên không cần đưa ra ý kiến nhận xét chi tiết? Hay nhận xét chung chung, thận trọng như vậy nhằm hạn chế thấp nhất mức độ rủi ro cho CTKT?

Thứ hai, DN có bắt buộc phải đăng kèm báo cáo soát xét của đơn vị kiểm toán hay không? Thực tế, tại nhiều bản công bố BCTC soát xét được đăng tải trên website của Sở GDCK không có báo cáo soát xét của CTKT.

2-Việc không đăng tải báo cáo soát xét của CTKT kèm theo BCTC của DN khiến NĐT không thực sự tin tưởng vào tính xác thực về tài chính của DN. Nhưng việc chỉ đưa ra một thông tin “BCTC đã được soát xét” thì hầu như cũng không có giá trị đối với NĐT. NĐT có quyền đặt câu hỏi: CTKT có làm việc nghiêm túc hay không?

Theo giám đốc một CTKT thì hầu hết các đơn vị kiểm toán đều đưa ra báo cáo sau khi thực hiện soát xét. Do quan hệ khách hàng và họ cũng không có thẩm quyền yêu cầu DN phải công bố BCTC soát xét kèm theo báo cáo nhận xét của CTKT nên có những trường hợp DN cố tình không công bố nếu thông tin mà phía kiểm toán đưa ra không có lợi.