TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0. 720: Lạm phát và lãi suất

Theo lẽ thường, khi lạm phát thấp, đặc biệt ở mức âm như hiện nay thì lãi suất sẽ phải hạ thấp một cách tương ứng.

1-Theo số liệu Tổng cục Thống kê vừa công bố, chỉ số giá tiêu dùng ( CPI ) cả nước trong tháng 9 tăng trưởng âm 0,21% so với tháng trước và ở mức thấp nhất trong vòng 10 năm qua. Nếu so với cuối năm 2014, CPI của 9 tháng năm nay chỉ tăng ở mức cực thấp là 0,4% – mức chưa từng có trong hàng thập kỷ nay.

2-Trong nền kinh tế thị trường,

+ lạm phát là cái nền để ngân hàng trung ương điều hành chính sách tiền tệ và xác lập lãi suất một cách phù hợp.

+ Bởi vậy, ngược lại, khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng thì ngân hàng trung ương sẽ thường hành động đối phó bằng cách nâng lãi suất lên để xì bớt áp lực lạm phát.

+ Một ví dụ cụ thể và dễ thấy trong chuyện điều hành lãi suất như thế này là chuyện Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) dùng dằng chưa thể tăng lãi suất USD lên trong tháng này vì một trong những yếu tố chính cần cân nhắc là lạm phát ở Mỹ vẫn còn thấp hơn mức lạm phát mục tiêu 2% mà Fed đề ra.

3-Nhưng ở Việt Nam, dường như là nghịch lý khi lãi suất tiền đồng không những không giảm mà còn có xu hướng quay đầu tăng lên gần đây và hiện đang đứng ở mức rất cao so với khu vực và thế giới, bất chấp chủ trương của Chính phủ sớm hạ mặt bằng lãi suất để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt tăng sức cạnh tranh.

+ Tuy vậy, nghịch lý này có lý do của nó. Thông thường, khi lạm phát thấp mà lãi suất vẫn cao so với mức trung bình của khu vực và thế giới làm tổn hại đến tăng trưởng kinh tế thì ngân hàng trung ương sẽ nới lỏng cung tiền để lãi suất bản tệ hạ xuống nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế. Việc nới lỏng có chừng mực tuy vẫn sẽ làm tăng áp lực lên lạm phát nhưng vì lạm phát đang ở mức thấp nên nếu có tăng thì lạm phát cũng chỉ ở mức có chừng mực và hoàn toàn có thể được chấp nhận bởi thị trường mà không gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho nền kinh tế.

+ Tuy nhiên, ở Việt Nam, điều trở nên bất thường là Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại không thể dễ dàng tăng cung tiền để hạ lãi suất. Yếu tố trói buộc NHNN thực hiện nới lỏng tiền tệ chính là tỷ giá.

+ NHNN vì theo đuổi đồng thời nhiều mục đích xung khắc như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định tiền tệ, đồng thời kiềm chế lạm phát nên NHNN luôn rơi vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan và buộc phải thỏa hiệp giữa nhiều mục tiêu xung khắc này.

+ Cụ thể hơn, nếu nhằm đến cái đích là hạ lãi suất bằng cách bơm thêm VNĐ cho hệ thống ngân hàng thì NHNN sẽ phải đối mặt với rủi ro không ổn định được tỷ giá VNĐ/USD, vì trong nền kinh tế sẽ có một lượng VNĐ lớn hơn đối trọng với một lượng USD không đổi, từ đó làm tăng áp lực mất giá của VNĐ.

+ Bởi vậy, để ổn định tỷ giá thì NHNN buộc phải ngừng biện pháp bơm tiền để hạ lãi suất. Như vậy, vấn đề ở đây là NHNN buộc phải lựa chọn ưu tiên hay hy sinh mục tiêu nào, chứ không thể có sự cầu toàn với tất cả các mục tiêu.

+ Xét trong bối cảnh hiện tại, rõ ràng NHNN đã lựa chọn ưu tiên mục tiêu ổn định tỷ giá VNĐ/USD, với sự lặp đi lặp lại thông điệp gần đây là sẽ không phá giá VNĐ thêm nữa, cho dù có thêm những yếu tố bên ngoài gây bất lợi cho tỷ giá như Fed tăng lãi suất USD lên từ mức gần 0% như hiện nay. Mà như vậy thì hiển nhiên lãi suất sẽ phải là vật hy sinh ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

+ Nói cách khác, chừng nào mà NHNN còn phải ngắm đến cái đích tỷ giá, còn tuyên bố không phá giá VNĐ nữa thì chừng đó lãi suất của đồng vốn VNĐ đến tay doanh nghiệp Việt Nam sẽ còn cao và thậm chí còn cao hơn nữa. Trong bối cảnh đó, lạm phát có thấp đến đâu cũng không phải là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng đến quyết định của NHNN.

4- Nhưng nếu phân tích kỹ thì lập trường chính sách của NHNN cũng rất rủi ro.

+ Khi NHNN kiên quyết không phá giá VNĐ thì như đã biết là lãi suất cho vay VNĐ sẽ phải tăng lên và đứng ở mức cao, làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa sản xuất tại Việt Nam.

+ Từ đó, lượng ngoại tệ thu được từ hoạt động xuất khẩu giảm đi, trong khi lượng ngoại tệ chảy ra khỏi Việt Nam lại tăng lên vì nhập siêu sẽ có xu hướng tăng lên.

+ Nhập siêu dồn nén sẽ làm tăng áp lực phá giá VNĐ, buộc NHNN lại càng phải quyết liệt bảo vệ tỷ giá VNĐ bằng cách bán thêm ngoại hối để can thiệp, cho đến lúc ngoại hối tụt giảm xuống mức nguy hiểm.

CASE STUDY N0.719: “TOO BIG TO FALL: KHÔNG AI MIỄN DỊCH “: Thái Lan đối mặt với vụ vỡ nợ lớn nhất kể từ sau năm 1997

PS: RẤT NHIỀU NGƯỜI HIỂU KHÔNG ĐÚNG MỐI TƯƠNG QUAN NHÂN QUẢ GIỮA BIẾN PHÍ “V“ & QUY MÔ ĐẦU TƯ/SẢN LƯỢNG “Q”!

Vụ phá sản của nhà máy liên doanh tại Vương quốc Anh kéo theo cả tập đoàn Sahaviriya chuyên sản xuất thép ở Thái Lan xuống bờ vực.

Sahaviriya, tập đoàn điều hành khu phức hợp sản xuất thép cán lớn nhất Đông Nam Á tại Bangkok, đã không thể thanh toán khoản nợ 50 tỷ baht (1,4 tỷ USD) trong ngày 21/9 vừa qua do đối tác liên doanh tại Anh bị phá sản.  

Tập đoàn Sahaviriya cho biết đã phải ngừng sản xuất tại nhà máy Teesside với khoảng 2.000 nhân công trong bối cảnh giá thép lao dốc và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trì trệ. 

Sahaviriya cũng đổ lỗi một phần cho tình trạng tăng trưởng yếu ớt của kinh tế Thái Lan với niềm tin tiêu dùng liên tiếp giảm trong 8 tháng đầu năm 2015 trong khi Trung Quốc bán phá giá một lượng lớn hợp kim trên thị trường, khiến nguồn cung thép toàn cầu tăng mạnh.  

Riêng trong 6 tháng đầu năm 2015, tập đoàn Sahaviriya bị lỗ 6,3 tỷ baht, gấp hơn 2 lần so với mức lỗ trong cùng kỳ năm 2014, theo báo cáo tài chính mới nhất. 

Vụ vỡ nợ của Sahaviriya được cho là sẽ ảnh hưởng tới doanh thu hàng quý của một số ngân hàng lớn như, ngân hàng thương mại Siam, ngân hàng Krung Thái Lan và tập đoàn tài chính Tisco khi tập đoàn này tái cơ cấu. Đây là 3 ngân hàng cung cấp phần lớn nguồn tín dụng cho Sahaviriya. 

Trong bối cảnh này, Ngân hàng Thương mại Siam sẽ phải chi thêm 10 tỷ baht – 11 tỷ baht trong mục trích lập dự phòng để xử lý nợ xấu của Sahaviriya. Ngân hàng Krung Thái Lan hy vọng sẽ mất 6 tỷ baht trong lợi nhuận ròng của quý III, tương đương 70% tổng doanh thu trung bình hàng quý. Trong khi đó Tisco sẽ phải chi 1,4 tỷ baht – 1,5 tỷ baht trong mục trích lập dự phòng. Điều này có nghĩa là, Tisco có thể bị mất gần như toàn bộ doanh thu của quý III, chuyên gia phân tích Kittima Sattayapan tại công ty chứng khoán SCB cho biết.

Đây là vụ vỡ nợ lớn nhất đối với các ngân hàng Thái Lan kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997. Cơ quan Thông tin và xếp hạng Thái Lan từng hạ xếp hạng tín dụng của Sahaviriya ở mức BB+ trước khi hạ xuống vào tháng 10/2011. 

Sahaviriya là một trong những tập đoàn có “núi” nợ xấu lớn nhất Thái Lan trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á gần 2 thập kỷ trước. Sahaviriya. chỉ dần phục hồi từ sau khi thực hiện chương trình tái cơ cấu nợ 21 tỷ baht. 

 Nguyễn Dung 

CASE STUDY N0. 718: Đầu tư từ Hàn Quốc: Vừa mừng, vừa lo!

1-Ông Hong Sun, Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam đã nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng, FTA Hàn Quốc – Việt Nam có hiệu lực, nhiều nhà đầu tư Hàn Quốc sẽ tới Việt Nam đặt nhà máy rồi xuất khẩu trở lại Hàn Quốc. “Nếu chỉ sản xuất và hướng vào thị trường Việt Nam thì không đủ, nên các nhà đầu tư sẽ hướng tới việc sản xuất để xuất ngược trở lại Hàn Quốc, khi được hưởng lợi từ thuế suất thấp theo cam kết FTA”, ông Hong Sun nói.

2-Câu chuyện nằm ở chỗ, khi vốn đầu tư vào, nhu cầu nhập nguyên vật liệu đầu vào, máy móc thiết bị cũng sẽ lớn và đó có thể là lý do khiến nhập siêu từ Hàn Quốc tiếp tục tăng mạnh. Lợi ích chỉ được cân bằng khi doanh nghiệp Việt Nam, trong đó có cả các doanh nghiệp Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam, cũng thúc đẩy được xuất khẩu sang Hàn Quốc, cũng như khi Việt Nam phát triển được công nghiệp hỗ trợ để thu được giá trị gia tăng cao hơn từ phần xuất khẩu của các nhà đầu tư Hàn Quốc. “Tôi chỉ lo rằng, người được hưởng lợi chỉ là các nhà đầu tư nước ngoài”, GS. Nguyễn Mại trăn trở.

3-Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan thẳng thắn chỉ ra những con số cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam mới tận dụng được rất ít những lợi thế do các FTA mang lại. Nếu doanh nghiệp Việt không tận dụng được, chênh lệch cán cân thương mại sẽ càng lớn.

4-Hiện tại, có thể chưa phải đáng lo ngại khi việc Việt Nam nhập siêu từ Hàn Quốc chủ yếu là do nhập khẩu nguyên vật liệu, máy móc phục vụ sản xuất. Nhưng nếu cứ đà này, nhất là khi ngày càng nhiều người Việt Nam mê phim, thực phẩm và hàng tiêu dùng Hàn Quốc…, thì có thể đến một ngày, thị trường này sẽ trở thành một mối lo ngại thực sự đối với chúng ta giống như Trung Quốc hiện tại.

CASE STUDY N0. 717: SỰ CHUYỂN GIAO LẶNG LẼ: M&A TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG: NH PHƯƠNG NAM + SACOMBANK

PS: ĐỌC LOẠT BÀI CỦA CÔ BẠN CÙNG TRƯỜNG MGIMO (SAU ẨN SỸ ĐẠI NGU 4 KHÓA) CÀNG THẤY THẤM THÍA BÀI HỌC THỜI LÀM CỐ VẤN CHO HTX TÍN DỤNG ĐẠI THÀNH CỦA MR.LÂM CẨU!?

1-Như vậy chỉ vài ngày nữa, NHNN sẽ trở thành cổ đông lớn ở Sacombank.

+ Việc NHNN cử người vào thay thế ông Trầm Bê, nắm quyền kiểm soát, thay đổi nhân sự… thuộc quyền của NHNN.

+ Ít nhất thì việc đưa người vào vị trí của ông Trầm Bê sẽ được công khai cho cổ đông và giới đầu tư rõ.

2-Ngày tiếp quản Sacombank “ồn ào” bao nhiêu, thì ba năm sau nhóm cổ đông Trầm Bê chuyển giao quyền điều hành cho NHNN lặng lẽ bấy nhiêu.

+ Sự khác biệt không chỉ ở trạng thái “ồn ào” hay “lặng lẽ”, mà còn ở sự biến thiên tài sản của những người trong vòng quay sự kiện.

+ Nhóm cổ đông quanh ông Trầm Bê vào Sacombank với ít nhiều tài sản trong tay là cổ phiếu của hai ngân hàng và nay ra đi không còn sở hữu cổ phiếu nào.

+ Chưa kể họ có thể phải bổ sung các tài sản khác trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của ngân hàng sau sáp nhập nếu giá trị tài sản đảm bảo cho các nghĩa vụ nợ không đủ.

3-Ở góc độ kinh doanh, cuộc đầu tư vào ngân hàng Sacombank của ông Trầm Bê và những người liên quan đã thất bại – một từ không dễ chịu để chấp nhận.

+ Không phải cuộc giải ngân nào bằng cả vốn thật và vốn ảo trong giai đoạn khủng hoảng tài chính – ngân hàng đều mang lại sự hài lòng cho nhà đầu tư.

+ Nhìn lại từ năm 2006 đến nay, các “đại gia” lớn nhỏ đổ tiền vào ngân hàng và nắm giữ lâu dài đều đã và đang tiếp tục trải qua thử thách.

+ Có lẽ điều này góp phần lý giải tại sao hiện nay dòng vốn dân doanh rất dè dặt chảy vào ngân hàng.

4-Mặt khác, những diễn biến ở Sacombank là một thông điệp có sức truyền tải ngầm trên thị trường.

+ Những “mạng nhện” vốn ảo trong cổ phần, cổ phiếu đang dần được bóc tách xử lý.

+ Bất cứ cuộc phẫu thuật nào để cứu bệnh nhân qua cơn nguy kịch và dưỡng sức trở lại cuộc sống đều không tránh khỏi đau đớn.

KL: Cuộc “đại phẫu” ngân hàng có lẽ cũng vậy!

CASE STUDY N0.716: QUỸ ĐẦU TƯ NGOẠI :BÀI HỌC ĐẮT GIÁ.

1-Doanh thu của VTC Online giảm liên tục từ năm 2012 đến nay đã khiến quỹ DWS Vietnam phải định giá giảm gần 80% giá trị khoản đầu tư vào công ty này sau 3 năm

+Theo một báo cáo gần đây của DWS Vietnam Fund (DWS), quỹ này chỉ còn định giá khoản đầu tư vào VTC Online ở mức 2,15 triệu USD.

+Các báo cáo của DWS cho thấy, doanh thu của VTC Online giảm liên tục từ 1.731 tỷ năm 2012 xuống 1.036 tỷ vào năm ngoái.

+Lợi nhuận trong các năm 2012 và 2013 chỉ đạt lần lượt 17 và 22 tỷ đồng.

+Trước đó vào tháng 7/2012, quỹ này công bố rót 10 triệu USD vào VTC Online để nắm giữ 19,5% cổ phần.

+Ở thời điểm đó, đây là một trong những thương vụ lớn nhất trong lĩnh vực công nghệ.

2-Số tiền được VTC Online giải ngân vào dự án GO.VN, phát triển game, phát hành game; phát triển dịch vụ truyền hình và dịch vụ giao dục.

3-VTC Online không phải là một công ty niêm yết do đó việc định giá khoản đầu tư dựa vào phương pháp riêng của quỹ DWS. Quỹ đầu tư này do Deutsche Assest Management quản lý đầu tư (đây là một trong những nhà quản lý quỹ lớn nhất thế giới).

CASE STUDY No.715: TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ VS TỶ GIÁ VS LÃI SUẤT

1-Phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP) năm 2015 đang đối mặt với nhiều khó khăn:tính từ đầu năm đến giữa tháng 9, Kho bạc Nhà nước mới chỉ phát hành TPCP được 97 nghìn tỷ đồng, tương đương với 39% kế hoạch cả năm. 

2-Nguyên nhân:

+Một khi TPCP vẫn được phát hành chủ yếu cho ngân hàng, trong khi nhu cầu tín dụng tăng nhanh khi nền kinh tế phục hồi, sẽ tiếp tục gây áp lực lên Kho bạc Nhà nước trong việc huy động vốn cho ngân sách, không chỉ trong năm 2015 mà còn cả các năm tới.

+ Một mặt, Thông tư 36 đã giới hạn tỷ lệ tối đa được mua và đầu tư TPCP so với nguồn vốn ngắn hạn, trong khi nhiều ngân hàng hiện tại đã chạm mức trần này, khiến cho một số ngân hàng dù muốn vẫn không thể mua thêm TPCP.
+ Mặt khác, Nghị định 78 quy định không phát hành TPCP kỳ hạn ngắn dưới 5 năm cũng gây khó khăn cho việc huy động TPCP, do các ngân hàng – đối tượng khách hàng chính của trái phiếu thường ưa chuộng các kỳ hạn ngắn;

+ Khi tâm lý mua USD làm nơi trú ẩn tăng lên gây áp lực cho thanh khoản tiền gửi VNĐ của các TCTD và càng làm gia tăng tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn tại các TCTD;

CASE STUDY N0.713: DNNN THOÁI VỐN: GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP: SCIC đấu giá cổ phần một công ty thua lỗ liên tiếp với mức khởi điểm 158.000 đồng/CP

1-Sau 2 năm liên tiếp thua lỗ (năm 2013 và 2014 với khoản lỗ lần lượt 15 tỷ đồng và 14,1 tỷ đồng), nửa đầu năm 2015 công ty này lãi ròng 319 triệu đồng.

2-Cuối quý 2/2015, số dư hàng tồn kho của công ty tăng vọt so với đầu năm, từ 77 tỷ đồng lên 172 tỷ đồng – chiếm hơn một nửa giá trị tổng tài sản tại cùng thời điểm.

3-Dòng tiền cũng là một vấn đề đáng lo ngại khi công ty bị “thâm hụt” tới 117 tỷ đồng từ họa động kinh doanh 6 tháng đầu năm 2015.

4-Du lịch An Giang có một hệ thống khách sạn trên 200 phòng đạt tiêu chuẩn từ 1 đến 3 sao tập trung tại trung tâm thương mại thành phố Long Xuyên, khu di tích Núi Sam – Châu Đốc, Hòn Chông – Kiên Giang, Vũng Tàu… được đánh giá là rất thuận lợi cho du khách.

5-Du lịch An Giang có quỹ đất tương đối tiềm năng với tổng diện tích khoảng 120.700 m2 được giao hoặc cho thuê với thời gian trên 40 năm. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Du lịch An Giang cũng được giao quản lý và sử dụng Khu đất số 935 đường Tạ Quang Bửu, Phường 5, Quận 8. Tuy nhiên, khu đất này hiện chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Những khu đất được giao sử dụng và hệ thống khách sạn có thể là lý do của mức giá khởi điểm “phi thường” 158.000 đồng của Du Lịch An Gian trong đợt đấu giá này, so với tình hình kinh doanh không mấy sáng sủa bên trên.

6-Du lịch An Giang có vốn điều lệ 77,8 tỷ đồng, trong đó SCIC nắm giữ 233.733 cổ phần, tương đương 30% vốn điều lệ công ty. Sau khi bán ra SCIC sẽ không còn nắm giữ cổ phần Du lịch An Giang.

+Hiện tại Du lịch An Giang chỉ có 2 cổ đông lớn là SCIC và CTCP Đầu tư và Phát triển Nguyễn Kim (34,7%). Tổng số lượng cổ phần 2 cổ đông lớn nắm giữ là 64,7%.

+Được biết, CTCP Đầu tư và Phát triển Nguyễn Kim có ngành kinh doanh chính là lương thực – thông qua việc góp vốn vào một số công ty lương thực như Docimexco, Angimex, Lương thực thực phẩm Vĩnh Long, Sài Gòn Lương thực, Hoàn Mỹ…

+Nếu Nguyễn Kim mua toàn bộ số lượng cổ phần mà SCIC chào bán, công ty này sẽ trở thành cổ đông chi phối của Du lịch An Giang với tỷ lệ sở hữu 64,7%.

CASE STUDY N0.712: DNNN :Ai gánh lỗ cho công ty Tài chính cao su?

1-Theo tài liệu của Thanh tra Chính phủ cuối năm 2014, thời điểm trước, RFC đã làm ăn thua lỗ lên tới 1.775 tỷ đồng. 2-Nguyên nhân là do công ty cho vay đến 1.900 tỷ đồng với con nợ chủ yếu là các công ty thành viên VRG, công ty bất động sản, chứng khoán, cho thuê tài chính…

3- Điều này dẫn đến nợ xấu 1.625 tỷ đồng.

4-Ngay bản thân Tập đoàn Cao su và các đơn vị thành viên còn hoạt động chưa ổn, khi hồi cuối năm 2014, Thanh tra Chính phủ đã chỉ ra nhiều khuyết điểm, vi phạm về quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong giai đoạn 2006 – 2011. Thanh tra Chính phủ đã yêu cầu xử lý về kinh tế số tiền sai phạm của VRG hơn 8.366 tỷ đồng.

5-Những sai phạm của VRG thời điểm đó mang tính hệ thống, từ tăng vốn điều lệ, quản lý đầu tư tài chính dài hạn trong và ngoài ngành nghề kinh doanh chính, quản lý doanh thu, chi phí, quản lý đầu tư xây dựng và đất đai, cũng đều phát hiện có sai phạm.

6-Không những vậy, hoạt động đầu tư ngoài ngành của VRG thời gian trước kia đã có những sai phạm nghiêm trọng dẫn đến mất vốn giá trị lớn, nhất là ở RFC và một số đơn vị thành viên như: CTCP Thương mại Dịch vụ và Du lịch cao su, CTCP Công nghiệp và Xuất nhập khẩu công nghiệp cao su…

7-Thế nhưng đến giờ, những sai phạm của RFC hay VRG vẫn chưa được xử lý thật sự rốt ráo. Không thể nói những thua lỗ, nợ xấu ở RFC hoàn toàn là lý do khách quan mà không có liên đới trách nhiệm của lãnh đạo RFC, VRG ở đây.

8-Vì RFC là mô hình công ty TNHH một thành viên, chủ sở hữu chỉ chịu trách nhiệm trên vốn góp của mình (1.088 tỷ đồng). Trong khi tổng tài sản của doanh nghiệp cũng vẫn còn trên 1.630 tỷ đồng. Ngoài ra, những khoản nợ xấu khó đòi đều có tài sản đảm bảo thì có thể tính toán cho phá sản.

 9-Theo ông Bùi Văn Dũng, nếu Tập đoàn Cao su nhận sáp nhập công ty tài chính và gánh nợ, có ai được lợi khi đối tượng RFC cần phải trả nợ phần lớn lại chính là… Tập đoàn Cao su và các công ty thành viên (chiếm tới 1.400 tỷ đồng trong tổng số nợ trên 1.900 tỷ đồng)?