TẦM NHÌN "ĐỊA-VĂN-CHÍNH-CÔNG-KINH"
QUYẾT ĐỊNH THÀNH CÔNG

I FORESEE TO WIN
NOTHING IS PERMANENT EXCEPT CHANGE

CASE STUDY N0. 856: Mối lo ngại hàng hoá dư thừa của Trung Quốc tràn qua Việt Nam

1-Sự giảm tốc và trì trệ của kinh tế Trung Quốc, bắt đầu từ cuối năm 2015 và dần trở nên hỗn loạn hơn trong 2 tháng đầu năm 2016;

2-Suy giảm nhu cầu nhập khẩu của thị trường Trung Quốc, dẫn đến sự sụt giảm xuất khẩu nặng nề của khá nhiều nền kinh tế trên thế giới.

3-Bán tống bán tháo các sản phẩm dư cung do dư thừa công suất sản xuất ở trong nước.

4-Trung Quốc đang gián tiếp đẩy hàng loạt các ngành sản xuất tại nhiều quốc gia vốn cũng đang trong tình trạng dư cung đến chỗ phá sản do không thể cạnh tranh với hàng Trung Quốc vốn đã rẻ nay lại càng rẻ hơn, do đã được chính phủ Trung Quốc áp dụng một loạt chính sách hỗ trợ như miễn giảm thuế hay bằng cách hạ tỷ giá nội tệ.

5-Việt Nam cũng không ngoại lệ:

+ Thậm chí còn phải đối mặt với một áp lực lớn hơn nhiều so với các nền kinh tế khác cũng đang bị ảnh hưởng từ sự giảm tốc và xuất khẩu trì trệ của kinh tế Trung Quốc. 

+ Trước hết, Việt Nam là một thị trường nhập khẩu lớn của hàng hóa Trung Quốc, tổng cộng lên đến 49,3 tỷ USD trong năm 2015 (đạt mức nhập siêu 32 tỷ USD từ Trung Quốc), chiếm tới gần 30% tổng kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam trong năm 2015.

+ Điều này khiến cho hàng hóa Trung Quốc do dư cung và giá rẻ đang có xu hướng tràn vào thị trường Việt Nam nhiều hơn, nhất là khi giữa hai nước có đường biên giới dài tới cả ngàn km. 

+ Các doanh nghiệp Trung Quốc đang tìm cách đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài để đối phó với sự giảm tổng cầu của thị trường trong nước do giảm tốc kinh tế, Việt Nam đang là một điểm đến đầu tư thu hút nhất được xem là sẽ bị tác động từ xu hướng này. 

Theo thống kê, vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu tăng vọt trong thời gian vừa qua. Cụ thể, theo Cục đầu tư nước ngoài, năm 2012 lượng vốn FDI từ Trung Quốc vào Việt Nam mới đạt mức 312 triệu USD đã tăng đột biến lên mức 2,3 tỷ USD vào năm 2013; sang năm 2014 tăng lên thành 7,9 tỷ USD và trong 6 tháng đầu năm 2016 tăng lên thành 8,13 tỷ USD.

CASE STUDY N0.850:ĐẦU TƯ CỔ PHIẾU : “MẤT ÍT CÒN HƠN TRẮNG TAY”:LẤY VNM LÀM VÍ DỤ

1-Kinh nghiệm quản trị rủi ro nói tóm gọn hơn là kinh nghiệm Cắt lỗ, Chốt lãi của nhiều quỹ đầu tư trên thế giới cho thấy, việc cắt lỗ, chốt lãi ở ngưỡng dự kiến ban đầu không bao giờ là sai.

+ Để tránh những quyết định dễ mang tính cảm tính nhiều rủi ro và bảo đảm cho túi tiền của mình, các quỹ lớn đều đặt ra ngưỡng cắt lỗ, chốt lãi cho mình và áp dụng hết sức nguyên tắc, thậm chí máy móc.

+ Thông thường, mức cắt lỗ là 5-7% và mức chốt lãi trên 10% tùy định hướng các quỹ.

2-Vì người nông dân biết rằng, cổ phiếu Vinamilk họ mua được ở mức giá 7.000 đồng là đã “lãi” khoảng 30% so với mức giá cán bộ công nhân mua là 10.000 đồng nên lựa chọn chốt lãi khoản đầu tư cổ phiếu ở mức giá 10.000 đồng hay mức giá khi Vinamilk niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán vào năm 2006 là khoảng 50.000 đồng/cổ phiếu thì họ cũng đã là nhà đầu tư khôn ngoan.

CASE STUDY N0.849 : ĐỌC VÀ HIỂU BCTC CỦA DN NIÊM YẾT :LẤY FLC LÀM VÍ DỤ

PS:CS này nhằm bổ sung thêm dữ liệu cho CS N0.844: https://www.mr-doom.com/chuyen-muc/nghien-cuu-tinh-huong-kinh-doanh-97.aspx

1-FLC là công ty BĐS nhưng doanh thu từ BĐS của FLC trong quý 2 /2014 chỉ là 15,97 tỷ, chiếm 1,3% trong số vốn 1540 tỷ của công ty.

 

2-Vậy nguồn thu chính của FLC từ đâu? FLC lại có doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động tài chính rất lớn;

+ Trong Q2/2014, FLC phát sinh lợi nhuận do bán cổ phiếu công ty RTS: 113.6 tỷ và phát sinh doanh thu từ bán cổ phiếu của OTP : 54 tỷ. (T31-BCTC HN Q2/2014);

+ Trong đó, FLC bán cổ phiếu OTP cho RTS với giá 54 tỷ: (T21 -BCTC HN Q2-2014) và FLC bán 19.9 triệu cổ phiếu RTS cho Trịnh Văn Đại với giá 269.620 tỷ và 10 triệu cp RTS cho Nguyễn Văn Mạnh với giá 133 tỷ thu về 113.6 tỷ lợi nhuận và tại thời điểm đó mới bán trên giấy tờ chứ chưa thu tiền về!

3-Vậy thì RTS và FLC có liên quan gì đến nhau?
+ RTS thì đang cho FLC vay 500 tỷ đồng thông qua mua trái phiếu: (T28/BCTC HN Q 2/2014);

+ FLC thì lại đang có 1 khoản đầu tư dài hạn cho RTS với giá trị 100 tỷ đồng (T25 -BCTC HN Q2/2014);

+ Ngược lại thì RTS cũng đang đầu tư cho FLC một khoản với giá tri hơn 190 tỷ ( T27 -BCTC HN Q2/2014);

v.v và v.v…

Kết luận:
1-FLC đang từng bước khẳng định tên tuổi của 1 tập đoàn lớn và uy tín, nhưng với những BCTC như thế này thì bao giờ các nhà đầu tư mới tin tưởng FLC để nắm giữ cổ phiếu lâu dài đây?
2-Hy vọng sẽ có những thay đổi trong BCTC của FLC thể hiện sự thống nhất doanh thu, lợi nhuận, sự chính xác, hợp lý của các con số và lợi nhuận từ ngành KD chính sẽ lớn thay vì chờ đợi từ lợi nhuận đầu tư tài chính, dù cái mác của FLC là công ty BDS chứ ko phải là công ty tài chính?

CASE STUDY N0.847: NỢ XẤU:THỰC vs ẢO

PS: 45% BẰNG 243.000 TỶ.DO ĐÓ 100% SẼ LÀ…? VÀ 70-80% BĐS THẾ CHẤP SẼ LÀ….?

1-Tỷ lệ nợ xấu giảm nhưng quy mô nợ xấu toàn ngành ngân hàng đang có xu hướng tăng nhanh trở lại.

+Tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống ngân hàng đã giảm đáng kể, từ mức đỉnh 4,08% năm 2012 (số liệu do Ngân hàng Nhà nước – NHNN công bố) đã giảm xuống chỉ còn 2,72% vào thời điểm cuối tháng 11-2015 (tương đương khoảng 120.000 tỉ đồng) do tăng trưởng tín dụng ở mức cao (18% trong năm 2015) đã phần nào giúp kéo tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ giảm xuống.

2-Thống kê cho thấy, trong chín tháng đầu năm 2015, nợ có khả năng mất vốn (nợ nhóm 5) của nhiều ngân hàng tiếp tục tăng đột biến.

+ Nợ nhóm 5 của tất cả các ngân hàng tăng 24,1% so với cuối năm ngoái, lên tới 19.662 tỉ đồng, chiếm hơn một nửa tổng số nợ xấu.

+Trong khi đó, nợ dưới tiêu chuẩn (nợ nhóm 3) cũng có chiều hướng gia tăng, đạt 9.334 tỉ đồng, tăng 12% so với cuối năm 2014.

+ Nợ quá hạn tăng nhanh sẽ tiềm ẩn rủi ro khiến tỷ lệ nợ xấu tăng trở lại trong tương lai.

3-Nợ xấu đã được “xử lý” như thế nào?

+VAMC tính đến nay vẫn đang là giải pháp chiếm tỷ trọng lớn nhất :khoảng 45% nợ xấu;

+ Chính các ngân hàng :chiếm 28% nợ xấu đã được xử lý;Và

+ Thu siết nợ :chiếm 27%;

+ Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam – VAMC (tính đến hết năm 2015 VAMC đã phát hành được 243.000 tỉ đồng trái phiếu đặc biệt, trong đó riêng trong năm 2015 là 110.000 tỉ đồng).

+Với 243.000 tỉ đồng nợ xấu gần như vẫn đang “đóng băng” tại VAMC : mới thu hồi được gần 23.000 tỉ đồng, tương đương 9,3% tính trên dư nợ gốc;

4-Ngoài ra, áp lực trích lập dự phòng cho trái phiếu VAMC sẽ tiếp tục gây áp lực không nhỏ lên lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2016.

+ Giả định không có thêm khoản nợ xấu nào được bán cho VAMC trong năm 2016 thì chi phí dự phòng cho khoản trái phiếu VAMC đã mua của toàn hệ thống năm nay ước tính sẽ khoảng 45.000 tỉ đồng.